Các bạn mang bài này post ở chỗ khác vui lòng add thêm đường link gốc của bài giùm tớ nhé. Cám ơn nhiều nhiều. 😛
Cái tàu đánh cá và cụ Khổng Tử
Khánh Duy
Khổng Tử có lời dạy: “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Cũng theo lẽ đó, Việt Nam không muốn gây hấn hoặc đáp trả theo cách có thể gây tổn thương tới các tàu đánh cá của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam.
Sáng 10/11 vừa rồi, Bộ đội Biên phòng Thừa Thiên Huế truy đuổi 16 tàu cá ra khỏi vùng lãnh thổ Việt Nam. Tàu tuần tra của Bộ đội biên phòng cũng đã bắt giữ 1 tàu cá mang số hiệu 14062 trên đó có 13 ngư dân Trung Quốc. Sau đó, quân đội Việt Nam lập biên bản, phạt cảnh cáo và phóng thích ngay con tàu này vào cuối giờ chiều.
Việc tàu Trung Quốc vào vùng biển Việt Nam đánh cá đã diễn ra không ít nhưng lần này, 17 con tàu đã vào quá sâu, tới khu vực giữa đảo Cồn Cỏ và bờ biển Thuận An, cách bờ có 24 hải lý. Việc lực lượng biên phòng phải vào cuộc, truy đuổi và xử phạt là hết sức đúng đắn và hợp lý.
Nhưng, điều đúng đắn hơn thể hiện trong lời phát biểu của ông Hoàng Xuân Chiến – Chỉ huy trưởng ban chỉ huy Bộ đội Biên phòng: “Chúng tôi cho là ngư dân Trung Quốc vi phạm hải phận Việt Nam cũng chỉ vì con cá thôi, nên chỉ giải thích rồi cho họ đi. Không phải vì họ đuổi bắt, đâm thủng, phạt vạ tàu mình mà mình trả đũa.”
Câu nói ấy của ông làm tôi nhớ lời cụ Khổng Tử của Trung Quốc, một lời dạy mà ai đã học Nho giáo của cụ đều biết: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là “cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”. Cụ Khổng còn dạy tiếp: cái gì mình muốn thì hãy làm cho người khác, “mình muốn tự lập thì cũng thành lập cho người, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công”.
Lực lượng biên phòng Việt Nam đã làm thật đúng với lời dạy hiền nhân, Việt Nam không muốn những chuyện đâm tàu, bắt giam, đánh đập ngư dân xảy ra với tàu cá nước mình nên đã không làm thế với tàu Trung Quốc.
Cụ Khổng “hồi sinh”
Khổng Tử là một triết gia, nhà tư tưởng có ảnh hưởng rộng khắp không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở nhiều nước châu Á khác. Dưới thời Mao Trạch Đông, cụ bị “hắt hủi”, bị coi là tàn tích của chế độ phong kiến cần xóa bỏ. Nhưng, trong vài năm trở lại đây, cụ Khổng được tôn vinh chưa từng thấy ở Trung Quốc.
Bộ Giáo dục Trung Quốc bật đèn xanh cho các đề xuất đưa văn hóa Khổng giáo truyền thống vào giảng dạy ở các trường phổ thông. Các trường Đại học mở các khóa học về Triết học Khổng giáo, thành lập những viện nghiên cứu Khổng tử.
Không chỉ trong nước, tốc độ thành lập các Học viện Khổng Tử ở nước ngoài mới thật kinh ngạc. 3 năm trước, một bài báo trên tờ Newsweek cho biết: “Trung Quốc thông qua một chương trình 10 tỉ đôla để tạo ra 100 Học viện Khổng Tử trên toàn thế giới vào năm 2010.” Thế mà, đầu tháng 11 vừa rồi, một bài trên VietNamNet thông tin: “cho đến cuối năm 2008, đã có 249 Học viện Khổng Tử được xây dựng trên 78 quốc gia.”
Nếu đúng như vậy thì Trung Quốc thật sự đã tăng tốc quá trình truyền bá giá trị Trung Hoa và Khổng giáo với một quyết tâm đáng kinh ngạc. Học viện mang tên nhà hiền triết để dạy tiếng Hoa và truyền bá văn hóa Trung Quốc, trong đó di sản cụ Khổng góp phần quan trọng.
15 năm trước, ít ai ở Trung Quốc dám nhắc công khai tới các nguyên lý đạo Khổng, ngày nay, người ta nhắc tới lý tưởng của cụ ở khắp nơi. Đặc biệt, quan chức càng thích “tầm chương trích cú” lời cụ. Cụm từ “xã hội hòa hợp” mà chủ tịch Hồ Cẩm Đào tuyên ngôn như một học thuyết sau khi nắm quyền năm 2003 là một ý tưởng nguồn gốc từ Khổng Tử. Cụ Khổng cả đời ước ao xây dựng một “thế giới đại đồng” – nơi mà người người sống với nhau thuận hòa như trong một đại gia đình.
Sinh thời, cụ Khổng đi khắp các nước truyền bá tư tưởng Đức trị, Nhân trị của mình cho các bậc quân vương. Thế nhưng, lời cụ chẳng được đoái hoài, cuối cùng, cụ đành về quê mở trường dậy học. Trước khi mất, cụ rớt nước mắt nói lời cuối với học trò Tử Cống:
– Thiên hạ loạn từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy, thầy sắp đi đây.
Cụ Khổng ở dưới suối vàng chắc cũng không thể tưởng tượng ra được, 1500 năm sau, hậu thế lại có chính thể “đãi ngộ” cụ hoàn hảo tới mức ấy khi coi những lý tưởng của cụ như một trong những nền móng xây dựng xã hội.
Chính quyền Trung Quốc “hồi sinh” cụ Khổng cũng có những lý do của nó.
Về mặt đối nội, nhiều tầng lớp nhân dân đã quá bức xúc trước tình trạng tham nhũng, tịch thu đất đai và tha hóa đạo đức của nhiều quan chức. Đạo Khổng chủ trương người cầm quyền phải Đức trị, phải Chính danh, phải Tu thân, phải Yêu dân. Ngược lại, người dân phải Tôn Quân, thiên tử là “con trời”. Vậy nên, đương nhiên, những quan điểm ấy được “hồi sinh” để giúp các nhà chính trị dễ điều hành cường quốc 1,3 tỉ dân.
Về mặt đối ngoại, tư tưởng ngoại giao hòa hợp, hòa bình của cụ Khổng rất hợp với những tuyên ngôn về đối ngoại của Trung Quốc. Trung Quốc đang trỗi dậy nhưng là “trỗi dậy hòa bình”. Điều ấy rất hợp với lời cụ Khổng dạy Nhiễm Cầu về đối ngoại: “Nếu người ta không phục mình thì sửa văn đức để người ta đến với mình, họ đến với mình rồi thì làm sao cho họ yên ổn.”
Danh phải chính
Đạo của cụ Khổng có những cái giờ đã bị coi là bảo thủ, là hủ lậu nhưng vẫn còn đó rất nhiều điểm hợp lý, trải qua cả ngàn năm vẫn là “niềm cảm hứng cho đời sau”, “làm cho đức trí con người được nâng cao” – theo lời học giả Nguyễn Hiến Lê.
Giờ đây, Trung Quốc tôn vinh lại di sản tư tưởng của cụ cũng tốt. Nếu vua quan ai cũng Nhân, cũng Trí, cũng Quân Tử như cụ dạy thì xã hội Trung Quốc có lẽ sẽ là một hình mẫu để thế giới học tập. Nếu chính sách đối ngoại cũng trên tinh thần “đại đồng”, “sửa văn đức để người ta đến với mình” như cụ dạy, các quốc gia láng giềng khu vực cũng sẽ an vui bắt tay chặt hơn nữa với Trung Quốc.
Nhưng, người nào đã học cụ Khổng cũng phải nhớ đến luận điểm cơ bản, xuyên suốt trong học thuyết của cụ. Đó là Chính Danh, Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành. Cụ cũng dạy: muốn Danh chính thì thân phải chính, muốn thân chính thì ngôn phải chính: nghĩa là lời nói và việc làm phải hợp nhau, không nói nhiều làm ít, nói thế này làm thế khác.
Trung Quốc đã tuyên ngôn lại tư tưởng “xã hội hòa hợp, thế giới đại đồng” của cụ Khổng từ 1500 năm trước. Nếu Trung Quốc làm ngược lại với điều ấy, e rằng lời cụ năm xưa lại ứng nghiệm, mọi việc sẽ không thành nếu ngôn không thuận. Hàng trăm học viện Khổng Tử có thể sẽ không tạo ra hiệu quả truyền bá và ảnh hưởng như mong muốn nếu như Trung Quốc có những hành động ngược với lời Khổng tử.
Tôn vinh đạo Khổng sẽ thực sự hiệu quả từ những điều nhỏ nhất: Trung Quốc không để xảy ra tình trạng đâm tàu, bắt giam và đánh đập ngư dân Việt Nam như trong thời gian vừa qua được nữa.
(Nguồn: Tuânviệtnam.net)
Bài đọc thêm:
Trung Quốc, ảo và thực
GSTS Nguyễn Mạnh Hùng
Đại học Laval
Québec, Canada
Nhân ngày 9-11- 2009, 20 năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ
Đáp những câu hỏi nợ bạn bè, lẽ ra chẳng phải đợi hôm nay, ngày bức tường Bá Linh sụp đổ 20 năm trước. Dẫu sao, đây cũng là dịp đánh dấu một cuộc đổi thay toàn cầu khá ngoạn mục, trên diện ý thức hệ, rồi chính trị và kinh tế. Thay đổi này chẳng chỉ ở Đông Âu mà còn cả Á Châu. Chủ nghĩa xã hội giáo điều coi như đã vào chung cục, kể cả ở những nước mạo nhận danh nghĩa xã hội chủ nghĩa, như Trung Quốc (TQ). Dù những con mèo lông trắng và đen cứ bắt được chuột là dùng – cách nói của Đặng Tiểu Bình – đã được phát ngôn từ nhiều năm trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nhưng giả như nếu sự cố này không xẩy ra, tôi chắc con đường của TQ vào tư bản chủ nghĩa bảo kê bằng những khẩu hiệu kiểu phát triển (kinh tế) trong ổn định (chính trị) sẽ bớt tính ‘’rừng rú’’. Ở thời điểm cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang có hy vọng được vãn hồi, và theo giới chuyên gia, vãn hồi là nhờ những quốc gia mới nổi như Brazil, Ấn Độ và nhất là TQ, dư luận về một TQ siêu cường (thậm chí có xu thế thành Đế Quốc) có vẻ là một thứ phao cứu cho phép người ta giữ hy vọng tránh được những tác động tồi tệ có khả năng thay ‘’bước cáo chung của lịch sử’’ kiểu Fukuyama – nghĩa là, thể chế chính trị dân chủ và nền kinh tế thị trường – như giai đoạn dứt điểm của văn minh nhân loại.
1. Tại sao hệ thống XHCN sụp đổ?
Liên Xô – tức Đế Quốc Xã Hội – sụp đổ vì không thể cứ giữ mãi một xã hội kinh tế yếu kém (nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và trung), thu nhập bình quân thấp, thông tin bịt kín một chiều, và nắm bộ máy quân sự-chính trị bằng một thiểu số đặc quyền đặc lợi. Cuộc chạy đua võ trang với Mỹ khiến LX bó tay trong khả năng nâng cao mức sống của người dân, đào sâu những rạn nứt xã hội từ bên trong, và cho thấy một Đế Quốc thuần quân sự khó tồn tại mãi được. Quyết định của Gorbachev không sử dụng 3 triệu lính LX để ‘’giữ’’ bức tường Bá Linh, với tầm nhìn trung hạn, là không tránh né được. Thật ra, từ những thập niên 60-70, giới trí thức ở những nướcXHCN đã thấy khá rõ sự bất cập của thể chế chính trị độc trị cộng hưởng với một nền kinh tế chỉ huy qua những kế hoạch tập trung. Họ từng nêu lên sự cần thiết một xã hội dân sự với ít nhiều quyền tự do căn bản… Kể ra, những Sakharov, Zinoviev, Sojentnitsyn là điển hình. Trí thức ở Ba Lan, Tiệp, Đông Đức, Hung cũng khá đông. Kornai, Havel…chẳng hạn. Bức tường Bá Linh sụp là một quá trình của chiến tranh lạnh, không đột phát, không tình cờ… Nói kiểu thời thượng (!), nó có tính cách qui luật.
2. Nếu là qui luật, tại sao vẫn còn TQ, VN, Bắc Hàn, Cuba?
Tôi không nghĩ TQ và VN, trừ khía cạnh độc trị, còn cái gì có thể gọi là XHCN. Ngày xưa, XHCN đồng nghĩa chia đều cái khó, cái nghèo. Ở TQ hôm nay, nghèo khó (thậm chí tương đối là hơn xưa) được ‘’lùa’’ lên đầu lên cổ nông dân, chiếm khoảng 7- 80% dân số. Thu nhập thấp, lại mất đất vì Nhà Nuớc (NN) công nghiệp và đô thị hóa, nông dân nay phải bán sức lao động với giá rẻ mạt, tha phương cầu thực ở những thành phố lớn, ngày làm việc trung bình khoảng 10-12 giờ, đêm chỉ có 2-3 mét vuông để trải chiếu ngủ, và cứ cuối năm là hàng ba bốn trăm triệu người về quê ăn Tết. Dĩ nhiên, với độ tăng GDP khoảng 7-10% thập kỷ vừa qua, TQ làm chóa mắt thế giới. Nhưng GDP là – nói cường điệu – một ảo tưởng. GDP không cho thông tin gì về sự huỷ hoại môi trường, về chỉ số an sinh xã hội (chủ yếu gồm phúc lợi đến từ y tế và giáo dục công cộng), về sự thất thoát do tham nhũng, về vấn đề phân bố lợi tức bất bình đẳng có khả năng dẫn đến khủng hoảng an ninh xã hội. Theo thống kê Liên Hiệp quốc thì chỉ số Gini đo tính bất bình đẳng phân bố lợi tức là 46.9, tức thuộc lớp những quốc gia mấp mé mức có vấn đề ở châu Phi và dăm nướcchâu Mỹ Latinh. Thật ra, lợi tức trung tuyến (median income) so với lợi tức bình quân nói nhiều hơn về mức bất bình đẳng, nhưng tôi không có số liệu đáng tin cậy. Sự bất bình đẳng này, ngoài giữa chủ – thợ, không chỉ giữa nông thôn – thành thị, giữa các sắc dân (Tân Cương là một thí dụ) mà còn giữa các vùng kinh tế (ven biển – nội địa, chẳng hạn). Hàng năm, số ‘’tranh chấp’’ của nông dân về nhà đất, của công nhân về điều kiện lao động và lương bổng, tăng lên đến cả trăm ngàn vụ. Nhưng thông tin bị bịt, thật khó xác định được mức bất ổn xã hội.
Nay, xin nói về 3 nước còn lại. VN thì là một vệ tinh xoay quanh TQ, nhưng là một vệ tinh chuyên ’’gia công’’ trong công nghiệp nhẹ, nợ nần như chúa Chổm, tham nhũng là quốc nạn, và dăm năm gần đây có ý đồ (!) bán tài nguyên thô (kể cả xuất khẩu lao động) vì thật mà nói, chẳng có gì khác để mang đi bán cả. Tóm lại, cả TQ lẫn VN, dẫu rêu rao XHCN nhưng nay ai cũng biết là hai nước này tuân thủ chủ nghĩa tư bản vừa rừng rú, vừa định hướng tư bản nhà nước độc trị, rất nặng mùi vị phong kiến. TQ bóc lột lao động để sản và xuất công nghiệp gia dụng hạng nhẹ, đang tìm cách vươn lên công nghiệp cấp trung (xe hơi, viễn thông…). Độ phát triển kèm lời hẹn, cứ giàu lên, dù không đồng bộ, nhưng ai nấy đều có phần hưởng. Và muốn phát triển, phải ổn định, nghĩa là phải phục tòng theo cung cách Trung quân Khổng – Mạnh. Trung quân, vua mới là tập đoàn lãnh đạo Đảng CSTQ. Và khi cần, thì động viên cái gọi là lòng ái quốc, phà hơi làm sống dậy niềm tự hãnh Hán tộc qua những động thái biểu diễn hào nhoáng như tổ chức Thế Vận hội, phóng phi thuyền lên không gian, và rêu rao là chủ nợ số một của Đế quốc Mỹ. Nhà Nước TQ đã cho xây khoảng 70 cái văn miếu thờ Khổng Phu tử trên thế giới, định tạo thị trường ‘’văn hóa’’ cho chính sách ổn định để phát triển, với tầm ngắm chính là Phi Châu còn nhiều tài nguyên, nhưng ta sẽ nói chuyện này sau.
Còn lại, Bắc Hàn thì XHCN ở cái nghĩa xấu nhất, dùng khà năng làm vũ khí hạt nhân như kế sách mặc cả với thế giới, với một tổ chức chính trị rập khuôn thời phong kiến, và hẳn cũng bắt chước TQ trong nhiều khâu. Cuba là một hòn đảo quá nhỏ, tối tối vẫn nhảy rumba, cha cha cha… trong tiếng nhạc xập xình mặc ai đó ban ngày bôi mỹ danh XHCN lên những mặt lộ lồi lõm ổ trâu ổ ngựa vì đã lâu không có tiền bảo quản.
Nói cho cùng, tôi chẳng thấy XHCN ở Á Châu hay bất cứ đâu. Tôi nghĩ Mác-Ăng-ghen có sống dậy cũng chịu, lắc đầu, và (có lẽ) thở dài. Khi hai vị cẩn thận loại ‘’phương thức châu Á’’ ra khỏi phân tích kinh tế – chính trị của mình, chắc là hai vị có khả năng tiên liệu khá xác đáng!
3. Xin anh nói thêm về TQ và cuộc trầm thoái kinh tế năm 2008-09.
Tháng 10-2008, tin công ty tài chính Lehman Brothers trên đà phá sản đã đẩy cuộc trầm thoái mấp mé bờ vực một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Rồi Goldman Sach, Merrill Lynch, AIG… cũng vậy. Bên Âu Châu, tình hình các nhà băng và công ty tài chính không khá hơn. Những nước công nghiệp cao ở mọi nơi đều đứng trước tình thế ‘’cạn nguồn’’ tín dụng (credit crunch), thứ mỡ bôi trơn cho cỗ máy sản xuất kinh tế vận hành. Thế là ông Nhà Nước khối tư bản chủ nghĩa Mỹ-Âu, xưa nay tuân thủ qui luật không (hay ít) can thiệp vào thị trường đành phải ra tay. Một là cho vay (tức phải in thêm tiền) và bảo trợ những công ty tài chính, và hai là bung những gói kích cầu ra để bù trừ cho sự giảm mức tiêu thụ gây ra bởi kinh tế đình trệ, nạn thất nghiệp, sự suy giảm tín dụng trong tiêu dụng. Đầu năm 2009, quả bong bóng trong thị trường chứng khoán xì hơi, độ tụt giá những tích sản chóng mặt, và người ta đã lo nguy cơ cuộc khủng hoảng toàn cầu 1929. G7, rồi G20, họp để cứu ứng nền kinh tế thị trường coi mòi không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Kinh tế gia Roubini, và nhà tài chính Weiss… đều đã tiên liệu cách đấy 2,3 năm tình trạng ‘’bóng vỡ’’ này. Ở Mỹ, lượng cung tiền tệ tăng gấp 2 từ thế chiến II. Chỉ trong 4 tháng, Bernanke của FED đã tăng lượng cung tiền tệ gấp 2 lần, bằng lượng tăng kể từ thế chiến 2 cho đến ngày Lehman Brothers gặp khó khăn. Thâm thủng tài chính của chính phủ liên bang Mỹ lên đến 1400 tỉ dôla, 3 lần thâm thủng năm trước. Nay, nợ của Mỹ lên 11 ngàn tỉ, và có khoảng 104 ngàn tỉ công trái cần bảo chứng. Chia đổ đồng từng đầu người, mỗi công dân Mỹ nay mắc nợ thế giới cỡ hơn nửa triệu đô la!
Nợ ai? Chủ nợ TQ có khoảng 870 triệu công trái. Tính thêm cả dự trữ đô la, TQ nắm trong tay khoảng 2100 triệu, thành vị chủ nợ lớn nhất thế giới của Mỹ. Chủ nợ có vấn đề của chủ nợ. Đi xiết nợ ư? Xiết thế nào? Trong khi với lượng cung đôla, chắc chắn sẽ lạm phát: giá trị đô la giấy so với những mặt hàng thật (dầu, vàng, sắt, nhôm…) sẽ giảm. Khi TT Nixon cho thả nổi đô la năm 72, giá một ounce vàng từ 35 đô lên 60. Hôm nay, 37 năm sau, giá vàng là 1000 đô/ounce, tức tăng 300 lần. Và tiền đô vẫn là tiền thanh khoản trong thương mại quốc tế, giá trị khống chế bởi chính sách tiền tệ ở Washington. Như vậy, chủ nợ buộc phải nhấp nhổm như ngồi phải lửa là điều dễ hiểu. Ở đây, xin nói thêm về chính sách tiền tệ TQ. Vì đặt trọng tâm lên xuất khẩu, hàng TQ rẻ nếu đồng Nhân dân Tệ thấp so với ngoại tệ. Nhiều lần, Mỹ yêu cầu TQ tăng giá đồng Nhân dân Tệ, bỏ chính sách kìm giá, để giảm áp lực cán cân nhập siêu. Bốn năm trở lại đây, TQ thả nổi rất chừng mực đồng Nhân dân Tệ, nhưng vẫn duy trì một mức sai lệch kiểm soát được. Nay, khi mức cầu kinh tế Mỹ (và Âu Châu) suy giảm, TQ lại càng không có lý do tăng giá đồng Nhân dân Tệ, vì làm thế thì không thể tiêu thụ được hết sản phẩm trên những thị trường tiêu thụ. Hơn nữa, đồng Nhân dân Tệ tăng, tức giá trị đôla giảm. Và giá trị món nợ của ông chủ nợ hẳn giảm theo. Nhưng nhìn lượng cung đôla như nói trên, sự cố giá trị nó giảm trong tương lai là tất yếu. Đề nghị mới đây về một rổ ngoại tệ (Đô Mỹ, Bảng Anh, Euro, Nhân dân Tệ, Rúp Nga, và vàng) thay thế cho bản vị đô la Mỹ thì còn lâu mới thành hiện thực. Trong khi chờ đợi (10 năm?) , phải tìm cách hạ cánh an toàn, nếu có thể!
4. Hạ cánh an toàn, TQ làm thế nào?
Hạ cánh, được! Nhưng hạ cánh an toàn thì không hiển nhiên. Với lượng đôla khá lớn nhưng giá trị bấp bênh ngoài tầm kiểm soát, TQ không còn ‘’ẩn thân’’ như lời Đặng Tiểu Bình khuyên đám đồng sự hậu bối là chớ kích động nỗi lo của Nã Phá Luân khi ‘’con Rồng thức giấc’’. Sẵn đô la, phải tiêu thôi. Rồng nay quẫy đuôi phun nọc rắn. Ở Phi châu, nơi tài nguyên thiên nhiên còn nhiều, lại vẫn còn dị ứng với châu Âu, những chủ nhân ông thời thuộc địa chưa mấy xa xôi. TQ nhìn thấy những cơ hội khổng lồ tại châu Phi. Kể từ năm 2001 tới nay, tổng thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi đã tăng gấp 10 lần. Riêng năm ngoái, giá trị thương mại là 107 tỉ dollar. Mười năm qua, TQ bắt đầu ve vãn bằng cách viện trợ và cho vay để xây dựng hạ tầng cơ sở, phô trương nghĩa vụ quốc tế lấy tiếng, ‘’bôi trơn’’ tầng lớp lãnh đạo, bán khí giới và luôn ủng hộ ‘’ổn định’, nhất là ổn định những thể chế độc tài’ như ở Darfur chẳng hạn. Gần đây, TQ đã kết cấu được với chính quyền ở Zimbabwe, Congo, Sudan. Ba năm qua, TQ ký kết thuê dài hạn đất nông nghiệp, khai thác tài nguyên địa chất, xây đập thủy điện, kiểm soát nguồn nước … Và chuyển sang châu Phi mô hình cơ xưởng và một đội ngũ công nhân TQ khá đông, có nguồn nói số này lên đến hàng vài trăm ngàn. Phải nói, thời thuộc địa châu Âu không thừa người như TQ. Người Âu đến, phần lớn đi sau ít năm, chỉ hoạ hoằn mới ở lại như trường hợp Algerie, hình thành lớp người mà người Pháp xách mé gọi là những kẻ ‘’chân đen‘’ (les pieds noirs). Với TQ, khác. Dân số đã lên 1 tỉ 3, tức 1/4 nhân loại, và người đông đất chật, sớm muộn họ cũng phải di dân. Song song, vấn đề lương thực sẽ rồi có, đất nông nghiệp rất cần. Đã là chủ nhân ông, có quyền sử dụng lao động như ý muốn. Công nhân Phi, hẳn phải có. Nhưng cũng rất cần công nhân (sau này, cả nông dân) TQ, vì tay nghề, vì ngôn ngữ, vân vân… Rồi cứ từng bước, họ sinh con đẻ cái, gây giống mới, và sinh cơ lập nghiệp dài lâu. Sự đe dọa này sờ sờ khó giấu. Ở Alger, tranh chấp xung đột giữa công nhân TQ và người bản địa đã xảy ra hàng loạt.
Người Châu Phi bắt đầu e ngại ‘’thực dân mắt xếch’’. Trả lời một phóng viên, TT Ôn Gia Bảo nói: “Từ lâu rồi đã có các cáo buộc là Trung Quốc tới châu Phi để khai thác tài nguyên thiên nhiên của châu Phi và thực hiện chính sách thực dân mới. Cáo buộc này theo tôi là hoàn toàn không có cơ sở. Ai là người thực sự đặt ra những câu hỏi này? Có đúng là các quốc gia châu Phi, hay lại là phương Tây đang theo dõi một cách lo ngại?”. Tuy nhiên, không chỉ có phương Tây đặt ra câu hỏi, mà một số chính trị gia cao cấp của châu Phi cũng lo ngại. Bộ trưởng Ngoại giao Nigeria, Bagudu Hirse, cho rằng TQ đang ném tiền vào các thể chế tham nhũng và đàn áp tại châu Phi, nói: ‘’Chúng tôi chấp nhận những gì Trung Quốc đang làm. Chúng tôi chào đón sự đầu tư của họ. Nhưng họ cũng phải hiểu rằng chúng tôi rất nhạy cảm trước các vấn đề dân chủ và cai trị tốt. Chúng tôi không thể nào bắt đầu lo lắng chuyện bị áp đặt cấm vận đối với Guinea hay Niger vì tội cầm quyền tồi tệ trong khi họ đi sau lưng và thực hiện một số hợp đồng”. Dân biểu độc lập của Ai Cập, Mustafa al-Gindi coi đây là cuộc chiến giữa phương Đông và phương Tây để giành lấy chiến lợi phẩm từ châu Phi. Ông cho rằng các mối quan hệ cũ tại châu Phi đang bị thử thách. Vô cùng lo ngại cách thức kinh doanh của TQ, ông phát biểu: “Cho dù họ nói gì đi chăng nữa, thực tế rõ ràng là Trung Quốc không đến châu Phi chỉ với các kỹ sư hay khoa học gia. Họ tới với các nông dân. Đây là chủ nghĩa thực dân kiểu mới… Họ không có đạo đức, giá trị gì cả, mà chỉ có một điều thôi, là: “Tôi muốn đất và chúng tôi sẽ lấy đất bất kể bằng cách nào”.
Năm nay, Liên Hiệp Quốc đã cảnh báo việc cho thuê đất dài hạn khiến nông phẩm có thể trở thành một loại khí giới ‘’bỏ đói’’ người cho thuê. Ngoài ra, và trên hết, TQ kiểm soát nước đầu nguồn những con sông lớn cũng đặt ra vấn đề an ninh ở hạ lưu và lượng nước cung cấp cho nông nghiệp : đây là những áp lực chính trị rất có trọng lượng khi TQ cần uốn nắn những quốc gia khác vào con đường mình muốn. Cũng vậy, như đối với những quốc gia vùng Đông Nam Á, những đập nước trên đất TQ ở thượng nguồn sông Mekong, sông Hồng … đều là những điểm ‘’chẹt’’ sinh tử có thể sử dụng khi TQ cần áp đặt.
TQ không chỉ dùng ‘’quyền lực mềm’’ với châu Phi hay với những nước Đông Nam Á mà còn bỏ ra hàng tỉ đôla mua lại cổ phần của những đại công ty ở Mỹ, Tây Âu, Úc…gặp khó khăn kinh tế. Phải nói, đây là một cơ hội hiếm hoi, và nắm cổ phần trong một nền kinh tế toàn cầu tuân thủ những qui định quốc tế còn hơn là giữ đôla mà giá trị thật bấp bênh. Nhưng ở khâu này, TQ gặp sự dè dặt đáng kể vì có những khâu kinh doanh ‘’chiến lược’’ các nước tiền tiến không muốn bị kiểm soát hay để TQ ‘’xí’’ vào để tìm thông tin kỹ thuật. Và cần tài nguyên dự trù trong phát triển, TQ tìm cơ hội hợp doanh để khai khoáng . Chiến lược này cũng chẳng dễ ăn : chúng ta nhớ vụ đụng chạm giữa TQ và Úc với những cáo buộc làm gián điệp kinh tế dẫn đến việc phải xé hợp đồng đã ký kết giữa Chinalco và Rio Tinto theo đó TQ mua 9% cổ phần với giá 14 tỉ. Năm 2008, China Petroleum and Chemical Corporation (Sinopec), tập đoàn dầu khí lớn thứ hai của thế giới chỉ sau ExxonMobil, cũng đã thất bại trong việc mua 20% số vốn của Repsol YPF của Tây Ban Nha. Năm 2005, China National Ossshore Oil Corp. (CNOOC) đã phải rút lại đề nghị mua công ty Mỹ Unocal với giá 18,5 tỉ USD, vì đề nghị đó đã gây ra các phản ứng rất tiêu cực ở Mỹ.
Đối phó với trầm thoái kinh tế, các nước Tây Âu và Mỹ đề nghị TQ cùng thế giới kích cầu, mở thị trường tiêu thụ nội địa, nhập khẩu nhiều, xuất khẫu ít hầu tìm một thế quân bình toàn cầu. Gói kích cầu ở TQ, vào khoảng 550 tỉ, chủ yếu nhắm xây dựng hạ tầng giao thông (đường sắt, xa lộ…), sau là hạ lãi xuất và dễ dàng cho vay trong khâu bất động sản, giảm thuế nhà đất. Số tiền cho những công ty nhỏ và trung bình vay được đổ vào nhà đất, lại tạo loại bong bóng cố hữu, khiến giá nhà Thượng Hải nay cao như bất cứ thành phố Mỹ nào. Lớp bần cùng đi làm công thất nghiệp, không được hưởng một chính sách hỗ trợ an sinh, đã nghèo càng nghèo. Sau một thời gian, TQ có chiều thành công trong việc kích thích kinh tế nội địa. Hiện tại, 200 triệu nông dân về sinh quán bắt đầu lục tục lên thành phố kiếm việc mưu sinh. Tuy nhiên, TQ vẫn chưa mở thị trường tiêu thụ nội địa, vẫn tiếp tục tăng xuất khẩu, tức vẫn gây ra những mất quân bình. Ở ngắn hạn, TQ đã hạ cánh được. Ở trung hạn, tức 10 – 20 năm tới, hạ cánh an toàn hay không để tiến lên vai trò siêu cường vẫn là một dấu hỏi. Một dấu hỏi lớn…
5. TQ siêu cường, là hiển nhiên? Việt Nam, muốn hay không, cũng sẽ rơi vào quĩ đạo kinh tế TQ?Và TQ có khả năng thành Đế Quốc kỷ 21 này?
Nếu tính tổng sản lượng GDP, TQ có nền kinh tế đứng thứ 3 trên thế giới, với ¼ dân số địa cầu. Nếu tính GDP/đầu người thì hiện 130 triệu người làm được 1 đôla mỗi ngày, và 35% dân số, tức trên dưới 455 triệu người, chỉ thu nhập dưới 2 đôla mỗi ngày, tức ở mức 700-750 đô la/năm. So vơí thế giới, người TQ vẫn còn là nghèo. Hiện chế độ an sinh (lợi tức hưu trí, y tế xã hội…) ở TQ còn phôi thai, và mức bất bình đẳng phân bố đo bằng chỉ số Gini là cao, cảnh báo tiềm ẩn xung đột lớn. Nếu xét đến mức phân bố theo vùng, rạn nứt giữa những khu kinh tế đặc biệt ở duyên hải và những thành phố lớn đối với nội địa mà nông nghiệp là chính càng ngày càng lớn. Ngoài ra, TQ phải đối mặt với hiện tượng ‘’lão hóa’’ trong cơ cấu dân số. Kèm theo, là vấn đề môi trường bị hủy diệt ở mức trầm trọng vì kỹ thuật kém và vì tầm nhìn ngắn. Hiện thời, TQ đã khởi bước đầu vào công nghiệp nặng và trung, nhưng vẫn còn tập trung trong khâu công nghiệp nhẹ nhắm xuất khẩu. Năm 2010 , TQ sẽ là nước có mức xuất lớn nhất thế giới, nhưng vẫn kẹt ở cái thế phải dùng đôla làm tiền tệ thanh khoản. Những nước mới nổi (Brazil, Ấn, Nga, và ArabySaoudite) – gọi là BRIC – bàn nhau về phương sách thay đôla, nhưng có sớm cũng phải 5,7 năm tới, và với điều kiện BRIC giữ được mức đoàn kết tối thiểu. Điều này khó, khi xét quan hệ Ấn – TQ và Nga – TQ.
Nhưng nếu cứ có khả năng ‘’ ổn định’’ củng cố tập quyền về mặt chính trị, chuyện vào vai siêu cường của TQ là có. Siêu cường, chẳng phải vì TQ có kỹ thuật không gian cao, đóng được tầu ngầm nguyên tử, hay phóng được tên lửa mang đầu hạt nhân xa 3000 km (hãy còn chậm 20 năm so với Mỹ). Siêu cường vì bỏ vốn đi buôn hợp đồng thời cầm giữ đôla như giữ lửa trong tay. Siêu cường vì có khả năng, như Âu Châu đầu cuộc Cách mạng Kỹ Nghệ thế kỷ 18-19, ra sức bóc lột giai cấp lao động trong nước và ăn cướp tài nguyên từ những thuộc địa. Khả năng có, nhưng hiện thực thế nào thì còn phải chờ. Những lực cản đã xuất hiện. Tây Âu, Nhật, Nga…bắt đầu quan tâm và có phản ứng trước chính sách kinh tế đối ngoại của TQ. Còn vướng tay giải quyết vấn đề kinh tế mỗi nước, hiện họ chỉ đánh động nguy cơ trước ‘’quyền lực mềm’’ và khẩu hiệu win-win ‘’hài hòa’’ của Bắc Kinh.
Phần Việt Nam, có rơi vào quĩ đạo kinh tế TQ hay không thì là một quyết định chiến lược, không cứ tất yếu kiểu một số người nghĩ, vì thế giới ở thế kỷ 21 này sẽ là, như lập luận trong phần sau, một thế giới đa cực. Và nói ngay, hiện nợ ngập đầu ông chủ nợ hàng xóm, vào quĩ đạo TQ thì con cháu chúng ta sẽ phải đi làm công ít là vài đời, thành nô dịch ô-sin chỉ vì chúng ta thiếu tự tin, thiếu tự trọng, và khiếp nhược trước một TQ ảo được hóa trang khéo léo và đánh bóng bằng lừa mị. Trên thực tế, TQ không đáng sợ đến độ chúng ta phải qui hàng vô điều kiện.
Hiện nay, TQ có thể ví như một con voi. Voi bằng giấy (phủ đôla móc từ thặng dư lao động của nông dân phải đi làm công nghiệp trên thành phố), với ba chân đất sét (với môi trường hủy diệt, lao động lão hóa, và bất bình đẳng trong phân bố lợi tức), một chân bằng gỗ (quân đội trung kiên với quyền lực chính trị). Nhưng TQ đã cấm không cho phép quân đội ‘’làm ăn’’. Chân gỗ hẳn chẳng còn được đóng đế sắt, và lung lay thế nào thì xin đợi vòng quay sau của bánh xe lịch sử.
Đế quốc kỷ 21? Chỉ vào vai siêu cường còn khó khăn thì TQ trở thành Đế quốc chưa thể là chuyện hình dung ra được. Ngược đường lịch sử, Đế quốc La Mã khai sinh từ một tổ chức quân đội kỷ luật và có khả năng kỹ thuật cao, sau rao giảng Kitô giáo, một hệ thống giá trị hoàn thiện hơn những nền văn hoá phôi thai ở Âu châu thời đó. Đế quốc Hồi đến sau, quân lực hùng hậu, phát triển thêm một nền khoa học. Với kỹ thuật dẫn thủy độc đáo, và kèm vào kinh Coran, cũng từ truyền thống tôn giáo vùng Trung-Cận Đông, họ mang tới châu Phi những giá trị mới. Đế quốc Anh, thống trị mặt biển, khai mào cùng một số nước Âu châu chính sách thuộc địa, mang theo hành trang những tư tưởng thởi Phục Hưng và Khai Sáng. Đế quốc Mỹ, thắng Thế Chiến II, chia thế giới thành hai, rồi đi rao giảng những giá trị Dân chủ, Tự do… Đế quốc Xã Hội cũng vậy, bài rao giảng Mác-Lênin là rao giảng về những giá trị, nhưng tiếc là khả năng trở thành hiện thực của những giá trị ấy không thật có. Kể sơ như vậy, dẫu biết là không đầy đủ, nhưng tôi vẫn nói nhằm nhấn mạnh hai điểm sau : Điều kiện cần để thành Đế quốc là lực lượng quân sự và kỹ thuật (kể cả kỹ thuật chiến tranh) cao, và sau, điều kiện đủ là kèm theo đó một hệ thống giá trị mới có khả năng thay thế những giá trị cũ kỹ lỗi thời. Về điểm đầu, TQ còn khá lạc hậu so với những khả năng quân sự những nước tiên tiến. Về điểm thứ hai, thật khó tưởng tuợng nổi một hệ thống giá trị thời Xuân Thu-Chiến Quốc xưa hàng mấy ngàn năm lại có thể ảnh hưởng lên những con người thời đại hôm nay, với những phương tiện truyền thông hiện đại. Dù có lập 70 Văn Miếu thờ Đức Khổng ở nhiều nơi trên trái đất, và mặc dầu không có ác cảm gì với nhà tư tưởng này, tôi vẫn tự thấy mình quả rất lố bịch khi tưởng tượng ra một thanh niên da đen sì sụp lạy Ngài, miệng lập đi lập lại Quân, Sư, Phụ…như thứ bùa chú để giữ ổn định cho những vị lãnh đạo Phi châu. Việc đi xây Văn Miếu này chứng tỏ những nhà lãnh đạo TQ đang bế tắc trong sự tìm kiếm một mô hình văn hóa có giá trị phổ quát toàn cầu ở ngưỡng cửa thế kỷ 21 này.
6. Kinh tế thế giới có phục hồi được không? Bàn cờ thế giới sẽ thay đổi thế nào?
Năm 2010 tới đây là một năm bản lề. Lạc quan, chuyên gia nói kinh tế Tây Âu và Mỹ sẽ tăng trưởng, nhưng chừng mực. Bi quan, sẽ lên rồi xuống kiểu chữ W, vì vẫn còn bong bóng, và những cứ liệu căn bản (fundamentals) không có gì mới mặc dù giá chứng khoán có tăng từ tháng 3 – 2009. Quay lại thời kỳ Cục dự trữ Liên Bang Mỹ bơm hơn một ngàn tỉ vào nền kinh tế hầu cứu ứng nan đề ‘’cạn nguồn’’ tín dụng, lý do khiến những Đại công ty Tài Chánh và ngân hàng không cho vay, cơ xưởng đình trệ, tức nền kinh tế ‘’thật’’ suy thoái. Tín dụng (tiền tệ) là giấy, ảo, và là đơn vị trung gian giữa mua và bán những mặt hàng thật ( như trả lương lao động, mua nhiên vật liệu… chẳng hạn). Trên lý thuyết, bản vị trung gian tín dụng không tác động lên nền kinh tế ‘’thật’’, nhưng trong thực tế cuộc trầm thoái vừa qua, thì không thế. Tại sao? Giới tài phiệt đã đi qua chức năng truyền thống của Ngân Hàng, lao vào hoạt động đầu cơ may rủi qua những quĩ đầu tư (hedge funds), và ngay khi được hỗ trợ, họ giữ tiền chứ không cho vay để bôi trơn hoạt động kinh tế ‘’ thật’’. Bằng cớ: vài tháng sau khi nhận tiền, khi chính phủ Mỹ định kiểm soát ‘’tiền thưởng‘’ (bonus) của lãnh đạo những tập đoàn kinh tài vẫn lên đến 900 triệu (trong 1 năm 2008 thua lỗ), họ đòi trả lại tiền ‘’bail-out ‘’ đã nhận và từ chối không cho chính phủ Mỹ ‘’điều tiết‘’ tiền thưởng của họ! Mặc dầu tân TT Obama được dư luận quần chúng ủng hộ, ông ta cũng đành ‘’chịu thua’’. Wall Street thắng Main Street, tài phiệt đã xử dụng nền kinh tế ‘’thật’’ như con tin để ép nhà nước Mỹ lấy tiền dân cung ứng hỗ trợ họ. Mới đây, trong hội nghị thượng đỉnh G-20 ở Pittsburg, những điều kiện chế tài vẫn lỏng lẻo, thậm chí đề nghị đánh thuế mua bán chứng khoán để giới hạn hoạt động đầu cơ (speculation) thôi mà cũng không được thông qua. Với lãi xuất hiện ở mức zero, người ta cứ vay đôla không phải trả tiền lời, mang đi mua chứng khoán ở những nơi giá trị tiền tệ tăng lên so với đồng đôla, tạo ra khả năng thổi những quả bong bóng mới trên thị trường. TT Sarkozy nước Pháp mạnh miệng lên tiếng nhiều lần, cho rằng tương lai của kinh tế tư bản thị trường mấp mé bờ vực phá sản với sự lũng đoạn của khu vực tài chánh-ngân hàng, nhưng tiếng ông nói vẫn vô tăm. Đây có lẽ là vấn đề cam go nhất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa : ảo thắng thực, và tài phiệt chễm chệ trên đầu mọi người, kể luôn cả tổng thống, thủ tướng, quốc hội… những quốc gia dân chủ tiên tiến.
Sau trầm thoái, phân bố quyền lực kinh tế (và chính trị, như hệ luận) sẽ khác. Mất đi, hay suy giảm, có Mỹ, Nhật, Tây Âu và những nước Đông Âu mới gia nhập Cộng Đồng Âu Châu. Được, những nước nhiều tài nguyên, như Brazil, Nga, Úc, Canada. TQ vẫn tiếp tục tăng trưởng, và nhân cơ hội xử dụng đôla đi buôn tài nguyên và đi ‘’buôn vua’’ kiểu Lã Bất Vi thời Chiến quốc, chắc sẽ phát huy trong một chừng mực nhất định vị trí của mình. Ở châu Phi, TQ giữ vai bảo kê cho những chính quyền độc đoán, hủ hóa quyền lực chính trị địa phương, khai thác tài nguyên nhưng đồng thời gây ô nhiễm môi trường môi sinh ở mức trầm trọng, mượn tiếng xử dụng lao động để di dân hòng đối phó vấn đề nhân mãn (ở mẫu quốc), tìm cách kiểm soát và điều hành yếu tố sinh tử là nguồn nước: TQ nay lộ hình bành trướng bá quyền, đi ngược lại hầu hết những giá trị nhân loại đã, và đang tiến tới, một đồng thuận. Thực lực, về khoa học – kỹ thuật, TQ còn tụt hậu so với thế giới. Và mang những giá trị phong kiến ra rao giảng như hệ lý luận trụ cột cho phương thức ‘’ổn định để phát triển’’ đúng là đi giật lùi ít ra hai ngàn năm. Trong tình huống trầm thoái kinh tế toàn cầu, với túi đôla khổng lồ, TQ bành trướng được. Nhưng chỉ trong một chừng mực, vì khi tương đối ổn định, những cường quốc kinh tế sẽ không thể ngồi yên xem TQ, con Rồng đang cong đuôi lên quẫy, tự biên tự diễn trò bá quyền mãi. Phi châu là chiến trường của cuộc xâm lăng kinh tế kỷ 21, và sự cố TQ đàn áp người Hồi giáo ở Tân Cương hẳn sẽ tác động tiêu cực lên cách người Phi châu mà đa số theo đạo Hồi nghĩ về khả năng hợp tác ‘’hài hoà’’ với Bắc Kinh.
Tóm lại, thế giới thế kỷ này là thế giới đa cực: điều này rất tích cực, cho phép những nước chưa phát triển trong đó có Việt Nam thời cơ hợp tác đa phương với mọi đối tác. Khép mình bó chặt vào quan hệ đơn phương và đặc thù với TQ chẳng khác tự nhốt mình trong cũi rồi hai tay dâng chìa khóa lên chỉ để nghe cho đủ 16 chữ ‘’kềm mạ vàng’’.
7. Còn quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rất phức tạp, với nào tranh chấp biển Đông, nào Bôxít Tây Nguyên… Ta phải nghĩ gì? Với đối sách nào?
Biết sớm muộn rồi cũng phải trả lời câu hỏi này, tôi xin ngắn gọn, không đề cập đến Biển Đông, Bôxít, than lòng sông Hồng, đập TQ đầu nguồn sông Mekong, v.v. Tìm trên http://bauxitevn.net/, chúng ta có rất nhiều thông tin trên những vấn đề này.
Dân dã có câu ‘’anh em xa không bằng láng giềng gần’’. Đó là trong việc cưu mang nhau. Nhưng nếu không cưu mang mà còn ngược lại, thì Việt Nam rất cần anh em xa để tránh láng giềng gần thò tay bóp cổ bịt miệng. Hai lần Bắc thuộc mà Việt Nam chưa biến thành quận huyện TQ là điều thần kỳ. Có người hô, nay thêm một lần Bắc thuộc. Xin chớ vội! Và coi chuyện Việt Nam phải vào quĩ đạo TQ như điều tất yếu hiển nhiên là một sai lầm chiến lược mà hậu quả là hậu quả truyền đời.
Người Việt đã đổ ra không biết bao nhiêu xương máu và nước mắt để giữ nước. So với thời Nguyên Mông lùa quân sang xâm chiếm nước ta vào đời nhà Trần thì có hai điều phải xác minh ngay. Tương đối mà nói, Nguyên Mông xưa hùng cường hơn TQ ngày nay nhiều. Và họ dùng quân sự, vì cách đây 500 năm, chưa có những hình thái khác. Ở thế kỷ này, dùng giải pháp quân sự đi xâm lăng là bất cập. Thay vào, là xâm lăng kinh tế, với sự đồng lõa của quyền lực chính trị địa phương. Thâm hiểm hơn nữa, song song với kinh tế là xâm lăng văn hóa qua phim ảnh, sách báo, truyền hình, xây Văn Miếu, tượng đài… nhằm đồng hóa: một khi mọi ngườiViệt Nam thấy mình chẳng khác gì người TQ, xâm lăng nào còn là vấn đề nữa đâu. Đời nhà Trần, Vua gọi họp Hội Nghị Diên Hồng tìm đồng thuận toàn dân. Trần Hưng Đạo bỏ thù nhà để lo đền nợ nước, quan tướng một lòng, không chia rẽ vì cái tư riêng, góp sức với nhau cứu lấy sơn hà. Đời nay, cũng phải vậy. Sau hai cuộc chiến giành độc lập khiến hàng triệu người phải hy sinh, những ai hiện thời có trách nhiệm dám bỏ chuyện tư túi để đoàn kết cùng nhau giữ nước? Xin hãy chấn dân khí, chứ đừng đi bỏ tù những kẻ mặc áo phông có ghi Trường Sa-Hoàng Sa là của Việt Nam. Chấn dân khí, vì dân là nguồn lực chính chống xâm lăng. Làm nhụt dân khí lúc này chẳng khác gì đi bán nước. Nước nhỏ, chúng ta hòa hiếu. Hoà hiếu khác bạc nhược. Nằm sát nách một thế lực lớn, chúng ta tránh đụng độ, nhu hơn là cương. Nhưng nhu không có nghĩa là nằm chết nhẹp, mặc cho người ta giẫm lên đầu lên cổ. Đừng thân Tàu vì chút quyền lực và tiền tài phù du. Và cũng đừng nhắm mắt bài Hoa, như một phản ứng vô điều kiện. Chúng ta đã từng chung sống hòa bình với nhân dân TQ. Chúng ta có thể tiếp tục sống với họ, bên cạnh họ, trong tương kính tương thân, nhưng không buộc cứ cong lưng cúi đầu trước đám quân phiệt – tài phiệt mà được.
Anh em xa là những ai? Nhật, Úc, Ấn và những nước khối Asean. Xa hơn, có Nga, Mỹ, Tây và Bắc Âu. Anh em xa, là cả cộng đồng quốc tế còn muốn xây dựng một thế giới công chính. Phần tôi, tôi tin là có một nhân loại tiến bộ, công bằng, hành xử có chuẩn mực đạo lý (ethics), không dễ mà thành đồng lõa của những mưu đồ bành trướng bá quyền. Người Việt Nam chúng ta, chẳng chỉ chính quyền và lớp lãnh đạo, làm thế nào để được sự hỗ trợ anh em vừa nói là điều đáng suy ngẫm. Và đó là yếu tố cho phép chúng ta tiếp tục tồn tại như một dân tộc.
N. M. H.
(Nguồn: Bauxite vn)
Dùng openDNS vẫn vào vô tư anh ạ 😀
quá hay :))
tiên sư nó
Hay đấy, he he he, tớ chôm về blog đăng lại cho bà con thư giãn chơi^^
Pingback: Tin tối thứ ba, 17.11.2009 « Voland1980’s Blog
thiệt nà vãi lol
Hay :)).
ko còn gì phải bàn cãi về độ hay nữa :))
chuẩn ko cần chình =))
Xin phép cho mình mang về blog nhé 🙂
tớ cũng chôm về nhé ^^
ai mang bài này pót chỗ khác vui lòng dẫn link trang này ở trong bài là được. 😛 Thanks a lot
cho mình mượn đăng lại nha
em dùng vnpt, mấy hôm trước khi dân tình kêu fb bị chặn, em vẫn vào fb bình thường mà, ở fb cả ngày luôn.
Pingback: Kết luận chính thức về vụ Facebook bị chặn ở Việt Nam « Invisible Heart
thêm em nữa, xin phép lấy bài này về blog chơi, hê hê. Khổ thân em dùng Open DNS mặc định rồi nên k0 thấy vụ cấm cản này, tiêc quá tiêc quá.
Thanksss so much 😀
Tại sao chị cũng dùng FPT, ở Sì Gòn vẫn và được bình thường. :))
cho em share với bọn diễn đàn trường. 😀
who knows 😀 thế là may rồi còn cự nự gì 😉
OMG! You’re great! GREAT!
Hay. Vui. Thanks
Vẫn đang chờ thông tin chính thức từ nhà nước hoặc ISPs.
http://huyzing.com/2009/11/17/faq-on-vietnam-block-of-facebook/
Hay ^^ 😀
có thể sẽ không bao giờ có, vì “vụ block chưa bao giờ xảy ra”, nhưng tớ cũng rất hi vọng được thấy thông tin chính thức 🙂
Dung wifi sửa DNS kiểu rì?
net’ ve~ dep. lam 😉 minh` rat thich net’ ve cua? ban.
Pingback: Tweets that mention Kết luận chính thức về vụ Facebook bị chặn ở Việt Nam « Phong ’s -- Topsy.com
hay, tu do ngon luan la the do
Pingback: Kết luận chính thức về vụ Facebook bị chặn ở Việt Nam « ghếđẩu's blog
Hôm nay lên facebook và 1 số trang nữa, thấy quảng cáo tập hình này đầy. Vậy là anh có dư khán giả để vẽ Orange hen 😀
cac bac dung wifi thi co the xai hotspot shield do!
Ngoai ra con nhieu chuong trinh khac hoac chinh lai IP duoc ma, hihi!
hic mình dùng EVN có vào đc facebook nữa đâu, giờ cứ gõ facebook.com là nó toàn redirect về google.com.vn 😦 thử mọi cách trên mạng chỉ đều ko đc :-s bổ sung thêm là hồi trc cũng có nhiều lần bị đơ ko vào đc facebook rồi, nhưng duy có lần này là nó redirect về google.com.vn 😀
Những ngày đó chỉ VNPT chặn thôi, FPT cơ quan mình vẫn ngon lành, đúng là cách cạnh tranh không lành mạnh thật
Hay, cảm ơn anh. Một tranh vẽ bằng 10 trang viết =D
Xin phép đăng lại 2 hình ảnh trên blogviet.info có ghi rõ nguồn của bạn, vì thấy bạn cho phép, thanks
Mấy ông VN không làm gì được nên bày đặt ra hạ sách này. FPT giờ mình cũng chả vào được đây này 😦
Cho mình đăng 2 tấm hình lên blog: http://afublog.co.cc nhé. Thx!
Cho e thảy cái link vào facebook nhà e nha ^^ thank a nhìu =))
Pingback: Top Posts « WordPress.com
Pingback: Kết luận chính thức về vụ Facebook bị chặn ở Việt Nam « Ba Sài Gòn – lảm nhảm chuyện đời
vẽ rất đẹp copy cái nhé
Pingback: Kết luận chính thức về vụ Facebook bị chặn ở Việt Nam | Thế Giới Blog
VẪN BẺ KHÓA VÀO BÌNH THƯỜNG ĐÓ THÔI!! CHẶN THẾ THÌ CHẶN CÁI J???CHẶN ĐC AI CHỨ
em xin 1 bản rinh về nhé ^^
::cười sặc sụa:: nhất là cái đoạn mấy quốc gia phát triển, tân tiến gì gì đó. và cái ảnh con chuột thì ngu hễt chỗ chê =))
Ha ha! Hay! tác giả của bức tranh quả là có đầu óc hơn người. Xin mạn phép copy về trang của mình một phiên bản làm kỉ niệm!
Việt nam sẽ được vinh dự đứng cùng hàng ngũ với Trung Quốc. Sướng ….
🙂
Nguyên nhân không vào được FB mấy ngày nay là đây

khắc phục lỗi không vào được Facebook.com
http://tructuyen.wordpress.com/2009/11/27/khach-phuc-loi-khong-vao-duoc-facebook/
ảnh độc lắm =)) Ai vẽ ngon thế nhỉ 😀
Trời !! Xem cái này lâu rồi mà giờ mwois biết của hai anh .
Vẽ quá đẹp , và đặc biệt ko có nét nào bị giống truyện tranh nhật 😀
bài này hay thật, bác vẽ đẹp ghê, thi thoảng em lại vào xem lại :))
Pingback: Facebook block workaround (and no, it doesn’t involve DNS) | Silent Wind
Congratulations for being interviewed and having your comics mentioned on CNN
CNN link:
http://edition.cnn.com/2009/WORLD/asiapcf/12/25/vietnam.facebook/index.html
Tìm hiểu ve FB bi ngăn chận . Các cán bộ Thong Tin Van Hoa tra lời là : “đo’ là tin bịa đặc” ỏ nước ta vấn đề thông tin rất thông thoáng , sở dỉ có chuyện bức tranh biếm họa là do thế lực thù địch hoặc còn mang lấy nảo trạng tư duy lổi thời cố tình vu khống cho nhà nước VN .Tóm lai Blogger Phong210 la thành phần “phản động” ( theo lờ kết án của cán bộ thông tin văn hóa của nhà nước CHXHCNVN) , bây giò mới hiểu ra rằng : Phản Động là Nói Sự Thật. Cám ơn Phong210 đã làm sáng tỏ vấn đề.
Hả, có chuyện này sao? o_0
chính phủ nhằm muốn hãm tốc độ tăng trưởng chống mặt của người dùng vn vào fakebook. nên có những chính sách như thế.
việc này rất rõ ràng.
bên trung quốc đã cúp từ lâu rồi.
hay quá anh ơi 😀